Truyền cắt DTT, PTT, PUTT, POTT là gì?
DTT (Direct transfer trip): Tín hiệu cắt sẽ được phát đi cắt máy cắt, đồng thời phát tín hiệu cắt trực tiếp đến rơ le phía đối diện. Rơ le ở mỗi đầu khi phát hiện sự cố và cắt máy cắt của nó sẽ truyền tín hiệu tới rơ le đầu đối diện qua một trong những cổng truyền thông số output. Rơ le phía đầu nhận sẽ nhận được tín hiệu này qua cổng vào phía input. Giá trị gán ở đầu vào này có thể là một biến (variable) hay một hàm (function) có khả năng cắt trực tiếp ở đầu ra của rơ le ( nhận tín hiệu) đến máy cắt của nó mà không cần kiểm tra bất kì điều kiện nào. Trong sơ đồ cắt trực tiếp DTT, tín hiệu cắt sẽ được phát đi cắt đồng thời chuyển thành tín hiệu liên động kiểu trực tiếp cho rơ le đối diện. Rơ le phía đối điện về nguyên tắt cũng phải được cài đặt giống rơ le này.
PTT ( Permissive transfer trip): Do những nhược điểm của sơ đồ cắt DTT, trên thực tế người ta hay sử dụng sơ đồ truyền tín hiệu cho phép PTT có độ tin cậy cao hơn. Thực chất của loại sơ đồ này là khi rơ le nhận tín hiệu cắt từ phía đầu đối diện gửi tới, nó không thực hiện lệch cắt ngay mà kiểm tra thêm điều kiện nào đó thỏa mãn hay không, nếu có thì gửi tín hiệu đi cắt máy cắt. Điều kiện này có thể là rơ le phía đầu nhận phát hiện sự cố khoảng cách, các phần tử định hướng hay sự cố…Như tín hiệu liên động không phải là tín hiệu trực tiếp DTT mà chỉ là tín hiệu cho phép PTT, đôi khi nó được viết tắt là PIT (Transmissive intertrip)
PUTT ( Permissive Underreaching transfertrip): Cũng tương tự như PTT, nếu phần tử phát tín hiệu cho phép của rơ le đầu phát là phần tử nội tuyến (Khoảng cách vùng 1) thì sơ đồ được gọi là cắt liên động do phần tử nội tuyến truyền tín hiệu cho phép.
POTT (Permissive Overreaching transfer trip): Tín hiệu truyền cắt xa. Phần tử phát tín hiệu của rơ le đầu phát là phần tử vượt tuyến (Khoảng cách vùng 1 mở rộng, vùng 2, vùng 3, phần tử phát hiện sự cố, phần tử định hướng) thì sơ đồ được gọi là cắt liên động do phần tử vượt tuyến truyền tín hiệu cho phép POTT. Có thể dùng một lúc hai kiểu POTT và PUTT độc lập qua các đường nối sóng mang riêng biệt. Khi đó kiểu truyền PUTT hoạt động trong vùng 1, còn kiểu truyền POTT hoạt động trong vùng mở rộng hoặc với vùng phát hiện sự cố. Trên thực tế ta có thể phần biệt sơ đồ POTT thuần túy (dùng bảo vệ khoảng cách 3 cấp kết hợp cắt liên động, còn gọi là POTT1) và sơ đồ vùng 3 khoảng cách hướng ngược có chức năng khóa (POTT2). Sơ đồ làm việc như sơ đồ thuần túy đối với các sự cố bên trong đường dây. Đối với các sự cố bên ngoài vùng 3 hướng ngược này sẽ khóa toàn bộ chức năng khoảng cách lại. Nếu một hư hỏng xảy ra trong thiết bị nhận tín hiệu hoặc kênh truyền, logic của bộ giao tiếp của bộ viễn thông có thể bị khóa bỏi đầu vào nhị phân và điều này không ảnh hưởng đến chức năng bảo vệ khoảng cách thông thường.